Diễn biến :
Tháng 2 năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tới Trung Quốc hội kiến Mao Trạch Đông. Mỹ và Trung Quốc đưa ra tuyên bố chung là Thông cáo Thượng Hải, trong đó phản đối "bá quyền" tại châu Á và Thái Bình Dương. Cũng từ năm 1972, Trung Quốc chấm dứt viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đổi lại Mỹ công nhận chính sách "Một Trung Quốc", theo đó họ bỏ phiếu loại Đài Loan ra khỏi Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc để Trung Quốc thay thế. Năm 1973, Trung Quốc và Mỹ mở văn phòng liên lạc ở thủ đô mỗi nước mở đầu cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.[16]
Năm 1973, với Hiệp định Paris, Hoa Kỳ và Hạm đội 7 rút quân và thiết bị của Hoa Kỳ ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Như vậy Hoa Kỳ đã xem tranh chấp tại quần đảo này không phải là việc của họ.
Cuối năm 1973, Trung Quốc lên án hải quân Việt Nam Cộng hòa đã có những hành động bạo lực tàn nhẫn nhằm vào ngư dân Trung Quốc đánh cá ở vùng biển quần đảo Tây Sa, bắt giữ ngư dân Trung Quốc, và tra tấn để buộc họ phải thừa nhận các quần đảo Tây Sa là lãnh thổ của Việt Nam[17].
Ngày 11/1/1974 Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc và tố cáo Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.[18] Sau đó, Việt Nam Cộng hòa ra tuyên bố khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam và bác bỏ những cáo buộc của Trung Quốc.[18]
Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa quyết định thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa có khả năng chuyên chở vận tải cơ hạng nặng C-7 Caribouđể chuyển quân nhanh ra nhóm Nguyệt Thiềm. Ngày 16 tháng 1 năm 1974, khi một phái đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thăm dò một số đảo Hoàng Sa trong việc chuẩn bị thiết lập phi trường nói trên thì khám phá ra sự hiện diện của Hải quân Trung Quốc, và giao tranh xảy ra sau đó.
Điều đầu tiên chúng ta phải tìm hiểu phi đội tiêm kích VNCH ngày đó ra sao ?
VNCH Sài Gòn có 254 máy bay Cessna A-37 Dragonfly chủ yếu là kiểu A-37B dùng máy đẩy J-85-GE-17A. Kiểu này là máy bay lưỡng dụng, vừa huấn luyện vừa cường kích. Kiểu này cũng là kiểu chủ yếu được sản xuất. So với các kiểu A-37 khác thì kiểu này có thêm khả năng mang dầu, bay xa, tiếp dầu trên không.\
Cessna A-37 Dragonfly có:
-Khối lượng rỗng 6.211 lb = 2.817 kg. Khối lượng tối đa 14.000 lb = 6.350 kg.
-Tầm bay điển hình.
-Tầm tối đa: 800 nm = 920 mi = 1.480 km;
-Bán kính chiến đấu: 400 nm = 460 mi = 740 km; con số này là mang 4.100 lb = 1.860 kg bom.
VNCH được các đồng minh cấp 158 máy bay F-5A Freedom Fighters, 10 RF-5A 8 F-5B huấn luyện, USA cung thêm bản mới nhất của dòng F-5 là F-5E Tiger II
F-5 là các máy bay phản lực hiện đại, tốc độ khoảng 2 lần âm thanh, cân nặng cỡ MiG-21. So với MiG-21, thì MiG ưu thế ở độ cao trên 6km, khi đó MiG có lực đẩy vượt trội cho không chiến. Nhưng MiG-21 yếu hơn F-5 xa ở khả năng ném bom, độ cao thấp, không khí đặc, tốc độ chậm, mang nặng... F-5 ném bom bổ nhào tốt, bổ nào chính xác, dễ bám sát mặt đất né đạn.
- Khối lượng rỗng: 9.558 lb =4.349 kg
- Khối lượng cất cánh điển hình: 15.745 lb =7.157 kg
- Khối lượng cất cánh tối đa: 24.722 lb =11.214 kg
- Tầm thông thường: 760 nmi = 870 mi = 1,405 km
- Tầm tối đa: 2.010 nmi = 2.310 mi = 3.700 km
Cụ thể
Đời đầu F-5A Freedom Figher
- Tầm tối đa 1387 miles = 2232 km.
- Bán kính chiến đấu với vũ khí tối đa: 195 miles = 313 km
- Bán kính chiến đấu với 2 bom 530-pound: 558 miles = 898.
Đời sau F-5E Tiger II
- Tầm bay tối đa : 1543 miles = 2483 km
- Bán kính chiến đấu với 2 đạn AAM không chiến: 656 miles = 1055.
Tầm tác chiến của máy bay VNCH thừa sức bay ra thả bom Hoàng Sa và bay về an toàn. |
Lời của phi công VNCH Nguyễn Thành Trung : (trích sachhiem.net)
"Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”.
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không.
Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích.Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác."
Thái độ của mỹ đối với đồng minh :
"Trong thời gian xảy ra chiến sự, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa nhận được thông báo của Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ (DAO) tại Sài Gòn, cho biết radar Đệ thất Hạm đội ghi nhận một số tàu chiến và chiến đấu cơ từ Hải Nam đang tiến về phía Hoàng Sa .Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa sau đó yêu cầu Hạm đội 7 trợ giúp, nhưng phía Mỹ từ chối,[30]thậm chí Hạm đội 7 từ chối cả việc cứu những thủy thủ của tàu HQ-10 đang trôi dạt trên biển.[32] Sau khi Bộ tư lệnh cân nhắc tương quan lực lượng, các chiến hạm Việt Nam Cộng hòa được lệnh rút bỏ quần đảo Hoàng Sa."
(wikipedia)
Thái độ của Mỹ trong vụ Hoàng Sa năm 1974, đó là một thái độ “không phản ứng rõ rệt, im lặng, không can thiệp”. Quan điểm này mới đầu nghe có vẻ lạ bởi VNCH là một “đồng minh thân cận” của Mỹ trên quan hệ quốc tế. Thái độ này gây một sự bất bình đối với chính quyền VNCH trong quá trình kêu gọi sự ủng hộ của các nước có quan hệ để giải quyết mâu thuẩn tại quần đảo Hoàng Sa. Báo chí VNCH và nước ngoài đều có nhiều bài phân tích thái độ của Mỹ nhân sự kiện hải chiến Hoàng Sa 1974 đã làm rõ vấn đề này, đặc biệt là những bài phân tích sau khi sự kiện này đã xảy ra.
Ngày 27/01/1974, sau khi Bộ Ngoại giao VNCH tố cáo những hành động vũ lực, xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, khẳng định ý chí chiến đấu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình, đồng thời gửi văn thư tới các Quốc trưởng hoặc nguyên thủ các quốc gia “thân hữu” nhằm trình bày các tiến trình của vụ Hoàng Sa, cùng chứng tỏ tính chính nghĩa của mình. Trước thái độ thờ ơ của Mỹ, Bộ trưởng Ngoại giao VNCH nói thanh minh và trách móc trên Tia Sáng rằng: “việc yêu cầu Hoa Kỳ dồn hạm đội thứ 7 can thiệp là hoàn toàn vô căn cứ".
Điều này phản ánh hai vấn đề: trên thực tế Mỹ đã không hỗ trợ VNCH và can thiệp trong vụ hải chiến Hoàng Sa dù có cả một Hạm đội kề bên; hai là đã là một “đồng minh thân cận” thì việc hỗ trợ đồng minh khi có chiến sự là một điều đương nhiên. Thái độ này chứng tỏ Mỹ có thể sẵn sàng bỏ rơi một đồng minh “nào đó” để theo đuổi quyền lợi riêng của mình để thực hiện chiến lược quốc gia.
Vì sao mỹ bỏ rơi đồng minh của mình ?
Nhận thấy kết cục của VNCH không còn được duy trì đằng sau đó Mỹ được cái lợi lớn hơn là “nhờ tay” Trung Quốc kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô, Mỹ không phải ra tay và có “tiếng xấu” trên cộng đồng quốc tế. Đó chính là một lý do để Mỹ chọn thái độ “không có phản ứng rõ rệt, im lặng”. Chính thái độ này của Mỹ đã bị các Nghị sĩ VNCH lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ. Họ cho rằng “đúng lý ra Việt Nam phải được sự hỗ trợ tối đa của các quốc gia trong thế giới tự do” và “12 quốc gia tham dự việc hình thành Hiệp định Paris 27-1-1973, nhất là Hoa Kỳ, phải có thái độ và nghĩa vụ rõ rệt trong vụ này". Đồng thời bài báo cũng đưa ra thêm một lý do là “vì trong giai đoạn hòa dịu, các quốc gia này không muốn làm mất lòng Trung Quốc vì sợ mất một thị trường tiêu thụ béo bở".
Một lý do quan trọng khác để dẫn tới thái độ của Mỹ trong vụ này, bởi tính chất của vụ Hoàng Sa chỉ là một “thắt nút” trong việc tranh chấp các đảo và quần đảo ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương giữa nhiều nước với nhau, không riêng gì giữa Trung Quốc và VNCH. Tờ Điện Tín, ngày 06/02/1974 có bài bình luận, đưa ra nhận định: “Nếu vì dầu lửa mà các nước đồng minh của Mỹ lộn xộn với nhau thì Mỹ sẽ khó bênh ai, bỏ ai. Cho nên trong vụ này, người ta có thể đoán tư bản tài phiệt Mỹ sẽ cố gắng sắp xếp sao cho nội vụ sớm ổn thỏa… đồng thời đã có một nguyên tắc chung đã được Mỹ và Trung Hoa đồng ý là không ai được chiếm ưu thế ở vùng Đông Nam Á
Mỹ đã bỏ rơi VNCH !
VNCH bị Mỹ gây áp lực
“Chừng nào còn một hòn đảo thuộc phần lãnh thổ ấy của VNCH bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân VNCH còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chánh đáng của mình”, chính quyền VNCH ra tuyên cáo vào ngày 14.2.1974 sau khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa.
Tuy nhiên, chính quyền Tổng thống Thiệu đã không ra lệnh cho chiến đấu cơ xuất kích để oanh tạc tàu chiến Trung Quốc, dù rằng với thực lực F-5 lúc bấy giờ có thể giúp VNCH giành lại được Hoàng Sa từ tay Trung Quốc.
Nhiều tài liệu quốc tế cho rằng chính Mỹ đã gây áp lực để chính quyền ông Thiệu không ra lệnh xuất kích vì không muốn đụng chạm đến Trung Quốc, lo ngại điều này sẽ làm ảnh hưởng đến kế hoạch rút quân của Mỹ.
Nhưng Mỹ được cho là có một “toan tính” sâu xa hơn khi không can dự vào trận Hoàng Sa năm 1974. Việt Nam và Trung Quốc đều đi theo con đường XHCN. Việc Washington “làm ngơ” cho Trung Quốc ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa tạo ra sự thù địch giữa Hà Nội và Bắc Kinh, dẫn đến sự chia rẻ giữa các nước cộng sản."
(Phân tích trên báo BBC 1974 được dịch lại)
Quân Việt Nam Cộng hòa trên các đảo đầu hàng, Trung Quốc chiếm toàn bộ Hoàng Sa :
Lực lượng của Việt Nam Cộng hòa trên các đảo bao gồm 1 trung đội (khoảng 48 lính và sĩ quan), có thêm 1 cố vấn Mỹ là Gerald Kosh. Trang bị của đơn vị này gồm: mỗi lính đều có một khẩu súng trường M16 và nhiều băng đạn, ngoài ra còn có 1 súng cối 60mm và 1 súng đại liên. Với trang bị tốt cộng thêm công sự phòng ngự, lực lượng này có thể chặn đứng quân Trung Quốc đổ bộ đông gấp nhiều lần, cầm cự chờ chi viện từ đất liền.
Phía Trung Quốc cũng dự tính khi đổ bộ sẽ gặp phản kháng mạnh, thương vong sẽ cao nên đã huy động số quân đổ bộ rất lớn: khoảng 500 lính Trung Quốc được huy động cho chiến dịch đổ bộ, được đưa ra Hoàng Sa bằng các tàu đánh cá. Tuy nhiên, diễn biến cuộc đổ bộ thuận lợi đến bất ngờ cho phía Trung Quốc: quân Việt Nam Cộng hòa không bắn trả nên quân Trung Quốc không chịu bất kỳ thương vong nào[34] Quân Trung Quốc nhanh chóng chiếm các đảo vì quân Việt Nam Cộng hòa đóng trên các đảo đã bỏ vị trí chiến đấu, chạy vào khu lùm cây giữa đảo rồi buông súng đầu hàng ở đó. Đến trưa thì lính Trung Quốc đã bắt được 49 tù binh gồm 1 người Mỹ, 23 lính địa phương quân, 6 sĩ quan quân đoàn 1, 5 nhân viên khí tượng, 1 sĩ quan và 14 quân nhân hải quân[36]
Theo lời binh nhì Nguyễn Ðức, từng đóng ở Hoàng Sa khi trận đánh diễn ra, thì quân Việt Nam Cộng hòa đóng ở trên đồi, ngồi trong lô cốt, cơ số đạn trang bị có thể tiêu diệt số lượng quân gấp mười lần số lính Trung Quốc đang đổ bộ. Nhưng rồi[37]:
- “Ông cố vấn người Mỹ nói sao đó với chỉ huy trưởng, sau đó có lệnh đầu hàng, chúng tôi phải cởi áo trắng cắm làm cờ và chạy lên phía rừng, thả súng chờ quân Trung Quốc tới bắt. Cuối cùng bị bắt sang Trung Quốc, chuyện là vậy, ông cố vấn Mỹ khi sang Trung Quốc thì không thấy đâu nữa, chỉ có chúng tôi gồm 43 người, kể cả chỉ huy. Nói chung là cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu vì sao lại có chuyện tự dưng đang thắng lại chuyển sang bại, đang đánh lại đầu hàng và vì sao chúng tôi được đối xử không tệ trong nhà tù?”
Cựu thiếu tá Phạm Văn Hồng, phó chỉ huy HQ-16 tham chiến trong trận đánh, đặt nghi vấn về vai trò rất quan trọng của viên cố vấn Mỹ có tên Gerald Kosh trong trận đánh Hoàng Sa. Theo ông Hồng, trận hải chiến Hoàng Sa không phải là một trận chiến tình cờ, trái lại, tất cả đều được Mỹ sắp xếp kỹ lưỡng từ trước. Trong lúc trò truyện, ông Hồng được biết Gerald Kosh vốn là Trung uý thuộc lực lượng đặc biệt mũ xanh (lực lượng biệt kích tinh nhuệ trong quân đội Mỹ), nay sang làm tại tòa Lãnh sự. Ông Hồng thấy Gerald Kosh mang tới 20 gói thuốc lá rồi một túi nhỏ đựng rất nhiều đồ mưu sinh thoát hiểm như lưới, bẫy sập, lưỡi câu... Đêm 18/1, đúng đêm hôm trước trận đánh, Gerald Kosh đòi lên đảo chứ không chịu ở trên tàu vì "sợ không an toàn". Đến ngày 19/1, khi bị bắt, lính Trung Quốc nói chuyện với Gerald Kosh bằng tiếng Anh (đây là điều bất thường vì binh sĩ Trung Quốc hồi đó rất hiếm người biết tiếng Anh, chứng tỏ phía Trung Quốc đã biết rõ trên đảo có một người Mỹ)
(wikipedia)
Việt Nam Cộng Hòa đã chống trả lại sự đổ bộ của Trung Cộng thế nào ? Ấn vào link dưới
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét